Bae Yang Soo
(Lưu Chung
Tú)
Giáo sư Tiến sĩ Bae yang Soo (Tên Việt là Lưu Chung Tú) nhận bằng
Tiến sĩ chuyên ngành văn học VN tại trường ĐH Sư phạm Hà Nội năm 1995. Hiện nay
ông là Trưởng khoa tiếng Việt trường ĐH ngoại ngữ Busan (Hàn Quốc).
Bae Yang Soo đã dịch nhiều truyện ngắn, thơ của các tác giả VN qua
tiếng Hàn và in ấn, phát hành tại Hàn Quốc. Ông cũng dịch một số tác phẩm nổi
tiếng của Hàn quốc qua tiếng Việt.
Ngoài việc
giảng dạy đại học và dịch tác phẩm văn học Việt - Hàn, ông còn là Tổng Thư ký
Hội những người Hàn yêu Việt Nam (VESAMO).
Phác thảo
quá trình tranh luận
của văn học
dân tộc Việt Nam
I. Dẫn nhập
Bài viết này phác thảo quá trình tranh luận của văn học Việt Nam . Quá trình
này cũng chính là quá trình tranh luận của văn học của dân tộc Việt Nam . Nghiên
cứu về vấn đề này dưới cách nhìn của ngừời nước ngoài, theo chúng tôi cũng là
một việc làm cần thiết và thú vị.
Sau khi thoát khỏi ách thống trị của Trung Quốc trong suốt 10 thế
kỷ, triều đại phong kiến của Việt Nam đã duy trì được 9 thế kỷ và cuối cùng bị
thế lực của Tây Âu mà cụ thể là thực dân Pháp phá vỡ. Các nhà Nho - cũng chính là
những người thuộc tầng lớp quý tộc Việt Nam, tầng lớp duy trì chế độ phong kiến
- đã buộc phải đối mặt với nguy cơ của sự mất đi bản sắc dân tộc. Từ chính sách
thoả hiệp và ôn hoà ở thời kì đầu, dần dần chính quyền thực dân của Pháp đẩy
mạnh ách thống trị và đã đàn áp hết sức dã man. Điều này khiến tầng lớp Nho sĩ
yêu nước phải tìm các con đường đấu tranh khác nhau nhằm dành lại nền độc lập
cho đất nước.
Từ cuối thế kỷ 19, từ việc Chính quyền thực dân Pháp cho phép sử
dụng quốc ngữ như một ngoại ngữ trong trường học, trên báo chí, tạp chí, sách
báo xuất bản, rồi từ việc văn học châu Âu bắt đầu du nhập vào Việt Nam, nền văn
học hiện đại Việt Nam bắt đầu thành hình.
Đến gần nửa sau của thế kỷ 19, triều đại phong kiến Việt Nam dần dần
chuyển hoá sang chế độ nửa phong kiến nửa thực dân. Mặc dù chỉ mới ở giai đoạn
manh nha nhưng nó cũng đã tác động đến phương thức kinh tế tư bản. Với sự du
nhập của chủ nghĩa tư bản, giai cấp thống trị và giai cấp bị trị bị phân hoá
thành các giai cấp công nhân, thủ công và tầng lớp trung lưu mà khi làm việc,
họ có quyền được nhận lương của mình. Thí dụ, kiểu tóc, trang phục … cũng biến
đổi theo kiểu phương Tây (đặc biệt theo kiểu Pháp), đó là kết quả của sự lột bỏ
sự ảnh hưởng đã từng rất sâu sắc của Trung Quốc. Điều này dẫn đến sự trao đổi
văn hoá ngày càng tăng giữa Việt Nam và thế
giới bên ngoài. Đối với các nhóm sáng tác, trong số tầng lớp Nho học Hán học và
Phật học, thì những người tiếp nhận nền giáo dục mới cũng đã có những bước
chuyển hoá xuất thần. Những người tiếp nhận văn học cũng dần dần gia nhập vào
tầng lớp thượng lưu mới. Đặc biệt, sự liên kết trung gian giữa tác giả và người
tiếp nhận là được thể hiện ở biến đổi trong cách in ấn và lưu hành. Kĩ thuật in
và sự xuất hiện hệ thống nhà sách kiểu phương Tây cùng với việc phát hành báo
chí đã tạo nên một bước ngoặt quan trọng trong sự phát triển của văn học Việt
Nam thời bấy giờ. Ở trên các trang báo luôn có trương mục định kì giới thiệu
văn học, vì vậy, các tác giả có thể dựa vào đó để viết bài kiếm kế sinh nhai.
Lý do sâu xa ở đây có thể chính là từ sự xuất hiện của chữ Quốc
Ngữ. Hán tự và Chữ Nôm trong thời kì này khó mà phổ biến đại chúng được. Trong
khi đó, ai cũng có thể tiếp thu một cách dễ dàng và nhanh chóng làm quen với hệ
thống tiếngViệt được viết bằng bảng chữ cái La tinh. Cho nên, dù bị sự phản đối
của các nhà Nho trong thời kì này, nhưng việc truyền bá và sử dụng thuận tiện
chữ Quốc ngữ cũng không vấp phải chút trở ngại nào cả. Hơn nữa, nếu xét từng
thể loại thì trái với dòng văn học trung đại, khi mà thơ đóng vai trò chủ đạo,
thì dòng văn học hiện đại có truyện ngắn làm vai trò chủ đạo. Cùng lúc đó là sự
xuất hiện của hí kịch và dòng thơ mới với sự đột phá phong cách cả về nội dung
lẫn hình thức. Nghiên cứu văn học cùng với sự phê bình văn học cũng xuất hiện trong
giai đoạn này. Đối với việc sử dụng ngôn ngữ trong văn học với phong cách đối
thoại khẩu ngữ, mà không phải là phong cách viết, cũng được phổ biến rộng rãi.
Cũng như Việt Nam, các nước châu Á từng là thuộc địa của các chế
độ thực dân cũng bắt đầu bị cận đại hoá do ảnh hưởng từ bên ngoài. Những trí
thức mới bước vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học hiện đại. Trong quá trình cận
đại hoá, họ vừa được đào tạo lại cũng vừa nghiên cứu để tìm lại cái gọi là “cái
của mình” hay “bản sắc riêng” (identity). Sự xung đột như vậy, ở Việt Nam, trên
thực tế, đã bắt đầu từ khoảng sau 50 năm từ khi thực dân Pháp bắt đầu đặt quyền
thống trị. Khoảng thời gian nửa thế kỷ được xem là khoảng thời gian đủ để hình
thành một lớp người theo khuynh hướng nghiên cứu Tân học của Pháp và có thể
tiếp nhận tri thức đó để phát triển các học thuyết lô gích.
II. Con đường đi tìm “bản sắc riêng”
Ở Việt Nam, khoảng giữa những năm 1920 đến năm 1941, sự mâu thuẫn
trong việc đi tìm “cái của mình” đã phát triển mạnh mẽ thành một vấn đề gọi là
“Quốc học”. Cái được gọi là “Bút chiến” đã khởi nguồn từ một câu hỏi gây tranh
cãi. Câu hỏi bất đồng này là: “Có thật là người Việt Nam có học vấn
hay không?” Vào thời kì đó, hai luồng ý kiến “có” và “không” đã được đăng đàn
thông qua báo chí và hai luồng ý kiến này không ngần ngại phản bác mạnh mẽ lại
quan điểm của đối phương hoặc dùng những lời lẽ xúc phạm nặng nề đến đối
phương.
Sự khởi đầu của những xung đột như vậy bắt nguồn từ một người vận
động phong trào độc lập. Đó là nhà Nho học Ngô Đức Kế (1878-1929). Ông cho rằng
“Bây giờ, Hán văn vẫn chưa bị mất đi và văn học Pháp vẫn chưa
chiếm một vị thế quan trọng cho nên ‘Quốc văn’ vẫn sẽ là thời kì thịnh vượng.
Không cần phải tìm thành lập ở đâu xa, không phải phí công trình trọng đại, lấy
tinh thần của Hán Văn làm đất cát, lấy trí thức của văn học Pháp từ làm gạch
đá, lấy quốc ngữ làm vôi hồ thực là một cái nền tốt đẹp cho mười mấy triệu con
Hồng cháu Lạc cất nhà xây vách ở trên ấy, sinh trưởng ca tụ ở trên ấy, núp nắng
mưa bão lụt, giữ trộm cắp cướp bóc ở trên ấy vậy.” (3)
và đã đưa ra phương pháp tiếp nhận cải cách, và cũng nêu lên quan
điểm của mình rằng nếu chê bai rằng học tiếng Pháp để có thể ăn uống và sinh
sống, mà Quốc văn cũng không giúp đỡ được trong việc kiếm kế sinh nhai, thì thử
hỏi đến khi nào ta mới có thể có được cái của mình.
Tương tự, trong chính quyền thực dân, việc nghiên cứu để giữ gìn
văn học dân tộc, hay “Quốc văn” cũng xuất phát ngay và đã chuyển biến thành
phong trào “Tranh luận Quốc học”. Cuộc tranh luận này khởi nguồn từ sự tranh
luận giữa Phạm Quỳnh (1892-1945) và Phan Khôi (1887-1960) vào năm 1930 và tiếp
diễn cho đến tận năm 1941. Trong bài trả lời “Cảnh cáo các nhà phiệt học của
Phan Khôi Tiên sinh”, Phạm Quỳnh cho rằng “phải nên cùng nhau hiệp lực, cố gầy
dựng nước nhà một nền quốc học đích thực, không Tây mà cũng không Nho, có cái
tính đặc biệt, tiêu biểu cho tinh thần bất khuất của giống nòi Việt. Ông chủ
trương thành lập “Hội chấn hưng quốc học” (4). Trả lời vấn đề này, Phan Khôi đã
phản bác mạnh mẽ lại với lý luận rằng
“Phàm cái gì từ trước đã có sẵn rồi sau suy bại đi, vậy mới gọi
là “chấn hưng” được. Cái nền “Quốc học” của nước Việt Nam từ xưa
chưa có thì sao gọi là “Chấn hưng” được. Chuyện học văn ở nước ta còn hiếm quá.
Bây giờ đây, ta cần phải nhen nhúm dần dần cho mỗi ngày một đông nhiều ra, rồi
mới mong có được sự lập hội như các nước ở ngày sau.” (5)
Trả lời về vấn đề này, Phan Khôi cho rằng
“Cái gì thì nên hiệp lại, chứ sự học thì lại nên chia ra. Nhờ
chia ra phái này phái khác mà đối địch cùng nhau, rồi sự học mới mau tiến bộ.
Chứ còn hiệp lại, làm cho cái tư tưởng cả nước phải ở dưới một cái quyền nhất
thống nào đó, thì thật là bất lợi, vì cái tư tưởng sẽ cầm chừng một chỗ mà
không nảy nở ra được. Vậy nếu ta đây có một cái hội, dầu cái mục đích không
phải chấn hưng mà là sáng tạo một nền quốc học đi nữa thì tôi cũng sợ cho cái
hội ấy sẽ giảm tư tưởng của quốc dân, nên tôi nói là không thấy cần”.(6)
Đồng thời ông cũng công khai phủ nhận lời đề nghị của Phạm Quỳnh.
Ông đưa ra chủ trương về việc xây dựng nền học thuật của Việt Nam rằng muốn đạt
được mục đích đó phải nên dụng công ở cả hai phương diện, đó là “Phương diện
phá hoại và phương diện kiến thiết” (7). Ông nêu ra đối tượng phá hoại là tư
tưởng hủ hoại và không hợp thời đại, chính là là chế độ khoa cử và Tống Nho. Ông
cũng nhấn mạnh những gì cống hiến cho mọi người thì bất luận của Phương Đông
hay của Phương Tây đều tốt và cứ phải đi sâu vào khai thác. Trong quá trình
này, ông nêu lên vai trò tích cực và năng động của các trí thức. Các trí thức
không có đầu óc phê bình và bỏ bê tinh thần tranh luận thì cho dù có gia nhập
vào hội hay thảo luận một cách tự do trong hội, thì vẫn chỉ biết có ‘dạ dạ vâng
vâng’. Đó là lý do Phạm Quỳnh cho rằng muốn sáng lập hội thì trước tiên phải
học cách tranh luận.
Từ những lời phản bác của Phan Khôi về chủ trương thành lập “Hội
chấn hưng quốc học”, Phạm Quỳnh đã một lần nữa viết và phản bác về khái niệm
“Quốc học”. Ông cho rằng, theo sự hiểu biết của người Việt Nam, trên thực tế,
trong ý niệm tuyệt đối, Việt Nam không có quốc học, nhưng để hấp thụ nền văn
minh học thuật của nước ngoài, người Việt cần phải giữ gìn sự biến đổi trong
tinh thần và những điều mình làm, đó là chủ trương tồn tại. Nhiều minh họa về
Quốc học về mặt ý nghĩa chỉ mang tính đối phó và theo ông, ý chí tự lập về mặt tinh
thần đóng vai trò quan trọng và nếu muốn tự lập thì không được để cho nước
ngoài đồng hóa với nước ngoài, mà phải có chủ trương. Phải tự tin về mặt tinh
thần và thông qua thuật ngữ “Quốc học và Quốc văn” mà nhấn mạnh đến tính thiết
yếu của quốc văn. Thông qua điều kiện tiến hành việc nghiên cứu quốc học và
chính là việc phải xây dựng được nền quốc học mang tính độc lập về mặt tinh
thần. Và điều này nhấn mạnh đến nền tảng cơ bản của sự độc lập về mặt chính
trị.
Về quan điểm cơ bản về quốc học, cả hai đều có chung ý kiến rằng
Việt Nam không có
nền quốc học chân chính. Nhưng họ lại trái ngược nhau về phương hướng xây dựng
nền Quốc học. Phạm Quỳnh theo khuynh hướng cải lương, trái lại, Phan Khôi thiên
về những ý nghĩ mang tính cấp tiến, phủ định quá khứ. Điều này có thể được thấy
rõ qua nguồn gốc khuynh hướng của hai người này. Hai người này đều nghiên cứu
về Hán học và Tân học nhưng trong thời kì trước, Phạm Quỳnh còn chịu sự quản lý
của triều đình. Cho đến sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thì ông bị coi là phần
tử thân Pháp, bị Việt Minh bắt giữ và phải nhận bản án tử hình. Còn Phan Khôi
thì tranh thủ sự trợ giúp từ phía Việt Minh bằng cách tham dự trong phong trào
Giải phóng dân tộc nhưng do có liên quan đến phong trào “Nhân văn giải phẩm”
nên cũng lại bị hạn chế. Vấn đề này sẽ được đề cập đến trong phần sau của bài
viết.
Theo Lê Dư, ở Việt Nam, Quốc học đã được định nghĩa: “Quốc học là
học vấn và kĩ thuật của một nước. Và học vấn và kĩ thuật này chỉ về một nét đặc
thù riêng của một nước, hoặc là được tiếp thu từ nước ngoài và đã có nhiều biến
đổi và nó trở thành nét đặc thù mà nước khác không có được” (8). Ông còn phê
phán rằng “Hai người trên đã xem qua châu Âu hoặc Trung Quốc, không có suy nghĩ
gì về định nghĩa và khái niệm quốc học, xem xét lý luận và khoa học của Châu Âu
và Châu Mĩ mà lại quan sát Việt Nam và rồi cho rằng Việt Nam ta không có học
thuật mang tính khoa học (hoặc có mà chưa biết đến) nhân đó mới sinh ra lòng tự
ru rằng nước ta hoàn toàn không có gì cả, tiền nhân ta hoàn toàn không biết gì
cả.” (9)
Nếu xem xét về vấn đề tranh luận quốc học của Việt Nam thì từ
định nghĩa và khái niệm quốc học, nó vừa bổ sung cho nhau, vừa cho thấy được
hình dáng mang tính cực đoan về những ý kiến không thể tiếp thu của đối phương,
vừa có thể thấy được sự nhận thức qua một vấn đề quan trọng có tên là “Sứ mệnh
và quan hệ của quốc gia” trong việc xây dựng Quốc học. Vào thời kì này, sách
báo và tạp chí phải chịu sự kiểm duyệt của chính quyền thực dân Pháp, có những
ngôn từ bị xóa bỏ trong quá trình kiểm duyệt. Và để tránh sự kiểm duyệt đó, các
tác giả phải tránh nhắc đến những vấn đề nhạy cảm mang tính chính trị. Nhưng
trong quá trình tranh luận Quốc học của Việt Nam vẫn có thể nhận thức được rằng
đây là cuộc sự tranh luận về quá trình phát sinh của “kháng thể văn hoá” vì “sự
độc lập” của Việt Nam. Tuy nhiên, ở thời điểm bắt đầu tranh luận, “tư tưởng
mới” chính là sự xuất hiện của Chủ nghĩa Mác, đồng thời, cho dù thời kì tranh
luận “kháng thể văn hóa” có chết đi, nhưng việc miền Bắc sẽ được thống nhất
bằng Chủ Nghĩa Mác cũng là điều thỏa đáng.
Một điều nữa là cùng với sự tranh luận Quốc học qua các trang báo
thì giai đoạn 1930 là giai đoạn khai hoa của Văn học Việt Nam thời kì cận đại.
Tuy nhiên ở thời kì này, văn học cận đại Việt Nam chia theo hai trường phái,
một là trường phái hoạt động bí mật và một theo trường phái hoạt động công
khai. Đối với trường phái hoạt động bí mật thì không thể in hay xuất bản những
tác phẩm của các tác giả có tham gia phong trào Giải phóng Dân tộc, mà chủ yếu
là được đọc từ những bản sao chép trong một giới hạn nhất định nên không để lại
được nhiều tác phẩm.
Đối với trường phái hoạt động công khai thì những tác giả có cùng
tư tưởng đã tập trung lại và công bố cơ quan ngôn luận, đồng thời mở rộng vị
trí của họ. Tuy vậy, ở lĩnh vực tiểu thuyết thì những nhóm tác giả đồng nghiệp
như “Tự lực Văn đoàn”, “Tiểu thuyết thứ bảy” cũng khá là nổi tiếng, ở lĩnh vực
thơ ca cũng có các nhóm như “Nhóm Bình Định”, “Xuân Thu Nga Tập”. Nhóm Tự Lực
Văn Đoàn chủ trương theo Chủ nghĩa cá nhân và Chủ nghĩa cải lương. “Nhân đạo”,
“Chủ nghĩa bình dân” hay “Ái quốc” trở thành những chủ đề tham luận. Khuynh
hướng nghệ thuật của thời kì này được chia thành Chủ nghĩa lãng mạn và Chủ
nghĩa hiện thực. Đối với khuynh hướng của Chủ nghĩa lãng mạn thì đây là khuynh
hướng của những người đã từng hoạt động bí mật, với mong muốn làm trỗi dậy tính
anh hùng và với nhiều nội dung liên quan đến vấn đề giải phóng “cái tôi”.
Trường phái công khai thì lại có khuynh hướng nội dung nói về hưởng lạc như yêu
đương, rượu chè, chơi bời trai gái.
Trường phái Chủ nghĩa hiện thực đi vào miêu tả hiện thực chính
xác cho từng thời kì, xác định lập trọng tâm. Tuy vậy, trong trường phái Chủ
nghĩa hiện thực, trường phái hoạt động công khai đã giải quyết được các vấn đề
chung của xã hội và trường phái hoạt động bí mật thì giải quyết các vấn đề về
độc lập và giải phóng dân tộc của một đất nước bị đô hộ và bị bóc lột . Đồng
thời, vào tháng 2 năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập, đồng thời
dần dần Chủ nghĩa hiện thực của Chủ nghĩa Xã hội cũng được khuyếch trương.
III. Giai đoạn thứ 2
Vào thời kì 1930, tranh luận Quốc học cũng như sự khuyếch tán của
khuynh hướng văn chương đa dạng sau Cách mạng tháng Tám đã vừa thâm nhập vào
miền Bắc của nước Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa, vừa, so với cuộc tranh luận về văn
học dân tộc, chuyển hóa thành vấn đề đi tìm phương thức truyền bá “tư tưởng
mới”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng “Dân tộc bị áp bức thì văn nghệ
cũng mất tự do. Văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia cách mạng.” (10) Và với
kim chỉ nam được biên soạn vào năm 1943 có tên là “Việt Nam Văn hoá Sử cương”
đã đưa ra một đường lối gồm có 3 phương châm là “Dân tộc, khoa học và đại
chúng” để hướng dẫn, chỉ đạo cái gọi là chí hướng của Văn học Việt Nam. Vào năm
1957, trong đại hội Văn nghệ toàn quốc Tổng bí thư Trường Chinh đã một lần nữa
khẳng định một cách cụ thể hơn về 3 điều trong đường lối trước đó là “tính dân
tộc, tính hiện thực và tính quần chúng”. Những tác phẩm nêu lên đến những sai
lầm hay những ý kiến đối lập với chính sách của quốc gia và Đảng thì cả tác giả
lẫn tác phẩm sẽ bị xử lý. Cho nên, văn học trong giai đoạn này luôn đi theo các
chủ trương của Đảng.
Bản tuyên ngôn độc lập ở miền Bắc vào tháng 9/1945 tuyên bố Việt Nam lao vào
cuộc kháng chiến trường kì chống Pháp. Và trong tình thế của cuộc chiến tranh
này thì “tính đa dạng về tiêu chuẩn của tình cảm nhân loại” đã gây ảnh hưởng
xấu đến tình đoàn kết dân tộc. Biết trước điều này, Việt Nam đã xác
định phương hướng là trung thành với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Vào năm
1954, bằng chiến thắng lịch sử của chiến dịch Điện Biên Phủ, sau khi miền Bắc
Việt Nam đã đánh đuổi giặc Pháp ra khỏi bờ cõi, Việt Nam đã chính thức thành
lập một chính quyền Xã hội Chủ nghĩa đúng nghĩa và cũng đã đề xuất “Chủ nghĩa
xã hội hóa” miền Bắc Việt Nam. Trong quá trình này bao gồm cả việc thi hành
chính sách “Cải cách ruộng đất”. Tuy nhiên, do phương pháp thi hành thái quá và
mang tính quá khích nên đã gây ra nhiều oán giận. Kết quả là chính phủ miền Bắc
Việt Nam phải công
khai xin lỗi dân chúng. Công cuộc cải cách ruộng đất đã tịch thu ruộng đất của
giai cấp địa chủ chia cho dân nghèo hoặc đề xuất cho tập đoàn sở hữu hóa.
Trong hoàn cảnh như vậy, việc nghiên cứu “Dân chủ hóa trong văn
học” cũng đã bắt đầu hình thành theo tiêu chuẩn. Vào tháng 3/1956, trên tạp chí
“Giai phẩm 1965”, những tác phẩm có nội dung phê phán sai lầm và mâu thuẫn của
miền Bắc đã bắt đầu được xuất bản. Một tờ báo tên là “Nhân Văn” cũng tham dự
vào cuộc tranh luận này. Do đó cuộc vận động này được gọi chung là “Nhân văn
Giai phẩm”.
Trong bài viết “Phê bình việc chỉ đạo văn chương” tháng 7/1956
trong cuộc tranh luận Quốc học ở phía trước, ông Phan Khôi đã phê phán gay gắt
về tương ứng giữa tính công thức và tính đồng dạng của các cán bộ “Văn chương
đồng minh” về nghiên cứu dân chủ hóa và tự do trong văn đàn miền Bắc Việt Nam.
Cuộc vận động này, Tố Hữu, Xuân Diệu, cũng như các tác giả khác là phát ngôn
của chính phủ nhưng kết quả thì “Nhân văn” và “Giải phẩm” đã gián đoạn và Trần
Dân - người được xem là lãnh tụ đã bị giam cầm và những người liên quan đến
cuộc vận động này tất cả đều bị từ chức và hoặc phải ngưng bút.
Sau giai đoạn cận đại, cuộc vận động tranh luận thứ hai trên văn
đàn Việt Nam cũng kết
thúc về một phía. Nhưng càng về sau xuất hiện càng nhiều cuộc tranh luận khác.
Cho đến lúc bấy giờ, việc tìm kiếm tài liệu liên quan đến vấn đề này không dễ.
Và ở hải ngoại, cũng có những bài viết của những tác giả ra đi từ miền Nam Việt
Nam nhưng những bài viết này, những vấn đề này dưới góc độ nào đó mang tính
“phản Việt”, nên việc đi tìm ý nghĩa và tính thực tế của cuộc tranh luận này
được xem là vẫn cần nhiều thời gian hơn nữa.
Vào năm 1956-1958, theo đà sự kiện Nhân văn Giai phẩm, “tương
phản với quan điểm mang tính lý luận sai lầm của những người đó và theo đường
lối của Đảng cùng với Chủ nghĩa Mác-Lê Nin, với mục đích nghiên cứu nghiêm túc
và mang tính hệ thống về vấn đề Di sản văn học dân tộc và lý luận văn học”,
Việt Nam đã thành lập “Viện Văn học Việt Nam”. Sau sự kiện này, nét đặc thù có
tính xã hội và lịch sử của Văn học Việt Nam chính là
chiến tranh và ảnh hưởng của quá trình xã hội chủ nghĩa hóa. Hơn nữa, việc
không thống nhất trong các đảng phái cũng dễ dẫn đến thất bại, nói cách khác là
dễ bị sự phê phán. Các tác phẩm của thời kì này trung thành với nguyên tắc của
chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc phản ánh hiện thực một cách
chân thực nhưng nó đã trở thành mục đích phản ánh nghệ thuật được gọi là hiện
thực. Do có sự giới hạn chủ đề, nên những bài viết về quân nhân, nông dân hay
những người lao động trở nên rập khuôn, theo một khuôn đúc có sẵn. Hơn nữa nội
dung các tác phẩm đều luôn mang tính lạc quan chủ nghĩa và ủng hộ thể chế chính
trị, những sự ngưỡng mộ, tán dương sơ sài và sinh ra cả các thói xấu bị đồng
dạng hóa. Giáo sư Phong Lê ở Viện Văn học trong bài luận văn “Nhận dạng của văn
học Việt Nam sau 1945”
đã nói như sau :
“Đó là sự ưu tiên cho đề tài chiến đấu và sản xuất; sự cổ độmg
cho khẩu hiệu yêu nước và căm thù; hướngtập trung nêu gương cái mới, khẳng định
tính lạc quan, xây dựng các điển hình có giá trị nêu gương; tránh âm điệu phê
phán và việc nhấn mạnh các mặt tiêu cực của đời sống, chủ đề tư tưởng phải rõ,
tránh đa nghĩa; hình thức phải ngắn gọn, giản dị, dễ hiểu.” (11)
Để trung thành với sứ mệnh chính trị, tự nhận thức rằng văn học
là vũ khí tư tưởng và giáo dục về lòng trung thành, tuy nhiên lại phải hiến
thân mình một cách toàn tâm toàn trí. Trong quan điểm cách mạng thì việc tìm
thấy “con người làm chủ tập thể xã hội chủ nghĩa” mang tính tích cực và lạc
quan có thể được xem là một sự cống hiến mang tính văn học của thời kì này. Vì
vấn đề sinh tồn của người dân thì chiến tranh đã vượt lên những cân nhắc mang
tính phân thân của cái gọi là “ta và địch”, và hơn nữa, điều đó buộc phải được
chấp nhận như là nguyên tắc tuyệt đối. Mặt khác, điều đó còn được đánh giá về
mặt nhận thức theo chuẩn mực của giai cấp. Cá nhân phải hòa tan vào trong tập
thể và “biện pháp giải quyết những khó khăn, bi kịch của cá nhân là hướng tới
cộng đồng và cách mạng”. Và cuộc kháng chiến trường kì đã không tạo nên bất cứ
khó khăn nào như một quy phạm của một khuynh hướng như thế. Tập thể luôn luôn
được ưu tiên hơn cá nhân, quá trình này quá đề cao mục đích mà đã vô tình lãng
quên tính đoàn kết. Công việc sáng tác được nhận thức một cách khá đơn giản và
thị giác quan sát nhân lọai đã nảy sinh khuyết điểm lý tưởng hóa và mang tính
công thức. Vào cuối giai đọan 1950, tác giả nổi tiếng Nguyễn Khải kể lại “Chủ
nghĩa anh hùng cách mạng đã là tiêu chuẩn thông thường trong cách nghĩ, trong
cách sống, thấm sâu trong mọi quan hệ. Người ta không thể nghĩ khác thế, không
thể sống khác thế, không thể có những quyết định khác thế.” (12)
IV . Giai đoạn thứ 3
Giai đoạn thứ ba của tranh luận Quốc học bắt đầu từ 10 năm sau
ngày Việt Nam thống nhất, là khoảng giữa những năm 80. Đây là giai đoạn công
cuộc “Đổi mới” của Đảng Cộng Sản Việt Nam . Đại hội
Đảng toàn quốc Lần thứ 6 đã nhấn mạnh việc “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá
đúng sự thật, nói rõ sự thật”. Theo đó, khi nói chuyện về sáng tác văn học thì
cũng phải ưu tiên nói về sự thật. Khả năng của tác giả và giá trị của tác phẩm
cũng xuất hiện ở nhiều phương diện nhưng nó nảy sinh ở những điểm nhấn mạnh
tính chân thực của cuộc sống bằng tính sáng tạo độc đáo và sức thuyết phục mạnh
mẽ một cách ưu đãi.
Lúc này, trong những tác phẩm vừa xuất hiện, có những tác phẩm
lôi cuốn được sự chú ý như “Tướng về hưu” của Nguyễn Huy Thiệp, “Nỗi buồn chiến
tranh” của nhà văn Bảo Ninh. Tác phẩm “Tướng về hưu” nói về vị tướng anh hùng
trong thời kì chiến tranh không thể thích ứng với sự thay đổi của xã hội, luôn
hồi tưởng về quá khứ và bằng nội dung chấm dứt cuộc sống đã phá bỏ “tính anh
hùng” của giai đọan hiện thời. Đại ý của tác phẩm “Nỗi buồn chiến tranh” thì
nói về “sự chiến thắng, chiến thắng cả lòng người, nhưng cũng là sự chiến thắng
của cái ác và bạo lực phi nhân loại.” Vì vậy, nỗi buồn của chiến tranh là nỗi
đau trong lòng người. Tác phẩm truyền đạt đến độc giả thông điệp rằng trong
chiến tranh, cho dù là kẻ thắng hay người thua thì họ cũng đều là nạn nhân cả.
Đây đã trở thành một tầm nhìn mới và đã tạo cho tác phẩm một tiếng vang lớn.
Bây giờ, trên văn đàn Việt Nam, để thích hợp với việc nghiên cứu
của thời đại và lịch sử, so với các chủ đề phong phú, bằng việc tổ chức một
cách tự nhiên đã tiếp cận gần các độc giả hơn. Do đó, không phải là tất cả quá
khứ đều mang tính phủ định mà ngay cả chủ trương xem xét cân nhắc tình thế mang
khía cạnh lịch sử đặc thù cũng khá là khó khăn. Hơn nữa, trong tình thế hiện
tại đã đi đến thời kì phải tiến hành cách tân, thì những điều chưa phù hợp và phải
phù hợp với “sự nghiên cứu mới mẻ của dân tộc và thời đại” và chủ trương những
cái cũ không được tồn đọng lâu dài.
Tính đại chúng, tính hiện thực và tính dân tộc theo đường lối văn
học của Đảng cùng với dòng chảy thời đại vừa tạo nên tính hàm súc và làm cho ý
#nghĩa của nó ngày một đa dạng, vừa thể hiện tính đa dạng bằng “Đổi mới sở hữu”
và tính dân chủ về nội dung. Nhưng chủ trương của Đảng là phải nhất quán, tất
cả những điều đó nằm trong một phạm vi lớn được gọi là “Kiến thiết Xã hội Chủ
nghĩa” và ngay cả việc đóng góp tính đồng nhất dân tộc và thống nhất cũng đang
được nghiên cứu. Cuộc tranh luận văn học lần thứ 3 này, kéo dài từ khoảng giữa
những năm 80 đến những năm 90, cũng cùng cũng chấm dứt.
V. Giai đoạn thứ 4 và thay lời kết
Cuối cùng, trong bài tham luận văn học Việt Nam của mình, như lời
Jeong Seon Tae đã nhấn mạnh, “Bằng Internet, cuộc cách mạng công nghệ trở thành
đại biểu là điều kiện dẫn đến việc chuyển sang một kỷ nguyên mới theo khái niệm
không gian và thời gian”. Sau chiến tranh, nhiều người dân Việt Nam đã xuất
ngoại và đã phát hành những tạp chí văn học cả trực tuyến (online) (13) lẫn
thành sách (offline). Trong số đó, một nữ tiểu thuyết gia đã đứng ra mở một
trang web để đưa lên những vấn đề liên quan đến văn thơ Việt Nam . Trang web
này là nơi để những những tác gia sinh sống ở Việt Nam và hải ngoại, những nhà
bình giảng văn học cùng nhau tranh luận. Ngày nay, người sử dụng Internet ở
những trang web như thế thường tìm kiếm những vấn đề mang tính chính trị, hoặc
khơi dậy những vấn đề đi ngược với chủ trương, duy trì tính khách quan. Tuy
nhiên, đây cũng có thể xem là cuộc tranh luận Văn học dân tộc Việt Nam lần thứ
tư. Những cuộc tranh luận Văn học dân tộc thông qua Internet có thể vượt qua
được những điều ràng buộc của chế độ và tranh luận tự do vượt qua không gian và
thời gian nên chú mục vào từng phần bằng không gian của những thảo luận mới.
Tất nhiên, ở đó, nhiều điều không thể được giải quyết sâu sắc, nhất là các vấn
đề hiện tại. Và hơn nữa, còn là những hạn chế mang lý do chính trị. Cuộc thảo
luận này có lẽ bây giờ và sau này cũng sẽ đưa lên những bài viết nhằm cỗ vũ hết
mình những nội dung, chủ đề để khuyến khích những cuộc tranh luận mới về phương
hướng phát triển của văn học Việt Nam và của các tác giả trẻ.
@
Chú thích:
(1). This
paper was supported by the research grants of the Pusan University of Foreign
Studies in 2005.
(2). PGS. TS.
Trường Đại học Ngoại ngữ Pusan, Hàn Quốc.
(3). Ngô Đức
Kế. 2001. Nền quốc văn. Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX. NXB. Lao động. Hà Nội.
p. 44.
(4). Phạm
Quỳnh. 2001. Trả lời bài cảnh cáo các nhà học phiệt của Phan Khôi Tiên sinh.
Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX. NXB. Lao động. Hà Nội. p.125.
(5). Phan
Khôi. 2001. Về cái ý kiến lập Hội chấn hưng quốc học của ông Phạm Quỳnh. Tranh
luận văn nghệ thế kỷ XX. NXB. Lao động. Hà Nội. p.132.
(6). lbid.
p.133.
(7). lbid.
p.133.
(8). Lê Dư.
2001. Vấn đề quốc học. Tranh luận văn nghệ thế kỷ XX. NXB. Lao động. Hà Nội.
p.204.
(9). lbid.
P.205.
(10). Trích
theo Hà Xuân Trường, Đảng và văn học, Việt Nam nửa thế kỷ
văn học (1945-1995), NXB. Hội nhà văn, Hà Nội, 1997, p. 94.
(11). Phong
Lê. 1991. Nhận dạng văn học Việt Nam sau 1945, Tạp chí Văn học. số 4, Viện Văn
học, Hà Nội. p.6.
(12). Nguyễn
Khải. 1984. Văn xuôi trước yêu cầu cuộc sống. Văn nghệ Quân đội. số 1-1984. p.99.
(13). Chẳng
hạn trang web của www.evan.com.vn.
Nguồn:
http://my.opera.com/toantransp1/blog/show.dml/10338561
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét