Thứ Bảy, 14 tháng 4, 2012

GVĐN 11: BÙI CÔNG THUẤN ĐỌC TẬP THƠ "TRỐN" CỦA ĐÀO TRỌNG THỬ

Buøi Coâng Thuaán
(HV Hoäi VHNT Ñoàng Nai)
SAO ANH LẠI TRỐN, HỠI NHÀ THƠ!
(Đọc tập thơ TRỐN của Đào Trọng Thử, Nxb Hội Nhà Văn.2011)

Tập thơ đọng lại trong tôi nỗi buồn và nhiều trăn trở. Nỗi buồn thế sự của nhà thơ về thế hệ mình, thời đại mình và về chính mình. Thơ Đào Trọng Thử (ĐTT) là thơ châm biếm–trữ tình, chất trữ tình là chính. Bởi dường như anh nhận ra rằng, sự phê phán châm biếm của anh đã bị thời đại vượt qua, và tiếng thơ của anh như tan vào cõi không. Trữ tình và châm biếm hòa quyện vào nhau, và  đó là phẩm chất nghệ thuật riêng của thơ anh.



Đào Trọng Thử quan tâm đến điều gì của thực tại?
Anh châm biếm cái sai, cái nghịch lý, cái bất nhân bất nghĩa, cái trái đạo đức của nhân dân, để khẳng định cái tình cái nghĩa, đặc biệt đối với những người đã chiến đấu và hy sinh. Anh không chịu đựng được những sự việc, những con người, những hoàn cảnh của đời sống kinh tế thị trường trái với lối sống tình nghĩa, nghèo mà thanh cao của thời chiến đấu hy sinh. Trong tập thơ này, trái tim người lính trong anh vẫn dành cho đồng đội. Niềm vui, nỗi đau của anh xuất phát từ sự hy sinh của những người bạn, tương phản với đời sống xã hội thực tại.
Bốn trăm chiến binh dự Mậu Thân đẫm máu
Các anh hy sinh khi tập kích Biên Hòa
Giặc chôn các anh chung nấm mồ to quá
Hài cốt mỗi người không thể nhận ra

Đành chia thôi: Ôi đống xương khô lạnh
Đầu, mình, tay, chân kiếm đủ, chia đều
Chia lần lượt, trời ơi sao vẫn thiếu
Tất cả lặng câm không nghe ai kêu?!
Cha chia cho con nào nhà nào đất
Mafia chia nhau món lợi nhuận kếch xù
Quân tham nhũng chia nhau những đồng tiền bẩn…
                                             (Chia)
Chiến tranh kết thúc lâu rồi
“Nhắn tìm đồng đội” của tôi chưa dừng
Nhắn người: - người dửng dừng dưng
Nhắn đất: - đất lặng không ngừng… chia lô…!
       (Nhắn Tìm Đồng Đội)
Đoạn thơ sau đây mang đặc trưng trữ tình-châm biếm của thi pháp ĐTT. Anh châm biếm rất khôn ngoan, mỉa mai rất sâu cay sự giả dối trong cách người ta tổ chức mừng chiến thắng, nhưng không thể bắt bẻ câu chữ của anh được, bởi anh nhìn thấu cái bất nhân bất nghĩa của con người hôm nay với người đã hy sinh, và bởi cái tình của anh với đồng đội sâu nặng quá.
Đồng đội cũ gặp nhau
Xanh xao
Nói cười như mếu
Lang thang lên tàu vào Nam -ra Bắc
Lên tàu ra Bắc xuôi Nam
Tự hào
Đưa tay ngang mũ để chào
Mắt ầng ậc nước
“Nước mắt dành cho ngày gặp mặt”
Nước mắt trong những ngày lận đận
TỔ QUỐC ĐÃ TOÀN THẮNG!
Chúng mình còn gian lao!
Nếu không có ngày 30 tháng Tư
Ta cũng không vợ, không con, không nhà
Không ruộng,
Ngồi trầm tư trên bàn thờ khói hương đứt quãng
Xương đen nằm ngoài nghĩa trang
Làm ma trẻ ngắm tượng đài sừng sững
TỔ QUỐC GHI CÔNG…

… Mừng Việt Nam ta thắng Mỹ
Nhà nhà cụng ly
Người người cụng ly
Chiến sỹ cụng ly
Quân tham nhũng cụng ly
Cùng nhau giết chó ăn mừng…

Đất nước đang thời mở cửa
Gió bốn phương, tám hướng ùa vào
Mát đấy rồi đau âm ỷ đấy
ĐAU SUỐT ĐẾN ĐỜI CON-ĐỜI CHÁU
CHÚNG MÌNH…!
       (Lắng Tiếng Vỗ Tay - Nhân dịp kỷ niệm 35 năm Việt Nam thắng Mỹ - 30.04.2010)
Trái tim anh còn đau nỗi đau của dân tộc trong thời đại nhiễu nhương, thời đại cả dân tộc sợ ngáo ộp (Có Một Con Ngáo Ộp), thời đại oan sai không biết tìm Bao Công ở đâu (Bao Công), thời đại mà chênh lệch giàu nghèo không sao hiểu nổi (Dột), thời đại mà nhân dân xài tiền xu còn bọn nghĩ ra tiền xu lại xài tiền tỷ, chúng ném vào mặt nhân dân những đồng xu đen như ném cho lũ ăn mày (Tiền Xu), thời đại mà người thua kiện luôn là dân đen (Sạch), bởi đó là thời đại người ta đã quên bài hát “vì nhân dân quên mình” (Bài hát Ấy Quên Rồi)
Tôi lớn lên ngáo ộp có lâu rồi
Nó hiện nguyên hình từ thời cải cách
Trong mỗi mái nhà tranh
Trên mỗi bức tường bức vách…
Làng xóm lặng câm như bãi tha ma…

… Trong tăm tối:
Người với người nhìn nhau ngờ vực
Con cảnh giác cha
Vợ ngờ vực chồng
Cháu đấu tố ông
Con đòi giết bố
Ngáo ộp âm thầm
Rình người khốn khổ
Nỗi kinh hoàng bạc nhược suốt trăm năm…

…Có một con ngáo ộp
Ngự trị trong anh
Ngự trị trong em
Ngự trị trong lòng dân tộc
Khổ đau cho tổ quốc này
Buồn thay!
       (Có Một Con Ngáo Ộp)
Bài thơ dùng ngôn ngữ ẩn dụ chỉ những người đương thời với tác giả mới hiểu, hoặc nếu biết lần theo câu thơ Tố Hữu thì có thể nhận ra. Những thế hệ hôm nay sẽ chẳng hiểu được ngáo ộpmình đồng da sắt / Trăm mắt, trăm tay” thật sự là gì, và bởi họ không hiểu nên không còn sợ ngáo ộp nữa. Thí dụ, vụ cưỡng chế đất tại Tiên Lãng mà Đoàn Văn Vươn dám chống lại Ngáo Ộp. Rất tiếc tập thơ này in trước sự kiện ấy, nếu không tôi tin Đào Trọng Thử đã có thơ, nhưng mà nhà thơ đã “TRỐN” thực tại hôm nay rồi, bạn đọc sẽ chẳng được đọc những bài thơ không sợ ngáo ộp của Đào Trọng Thử. “Buồn thay!”. Ấy là tôi chỉ giả định vậy thôi, nhà thơ hôm nay đã không còn là anh lính chiến năm xưa nữa, mà “giờ đây thanh thản đợi giờ để bay”(Lên Lão)
Và đây là nỗi đau đã bật thành tiếng cười bất lực, bởi thời đại hôm nay đã đánh mất lý tưởng:
Thời anh là lính chiến
Đêm ngày “Hành quân xa”
“Bác vẫn cùng chúng cháu”
Ngày nào anh cũng ca

“Vì nhân dân phục vụ”
“Vì nhân dân hy sinh”
Vì nhân dân quên mình”
Cả toàn quân cùng hát

Đất nước giờ đổi khác
Thêm nhiều bài hát hay
“Vì nhân dân” quên khuấy
Cúi đầu chào - bó tay…!
       (Bài hát Ấy Quên Rồi)


Đào Trọng Thử trốn đi đâu?
Đào Trọng Thử lấy tên tập thơ là “TRỐN”, bạn đọc sẽ tự hỏi tại sao nhà thơ lại trốn, trốn đi đâu, thái độ của anh là thế nào trong cuộc chạy trốn?
Vào rừng để nhớ chiến tranh
Một thời khốc liệt toàn anh lính quèn
Phố phường sống gấp không quen
Quên nhanh thớ lợ, nghèo hèn nhớ lâu

Rừng ơi đồng chí ở đâu?
Cây rưng rưng lặng. Ve sầu điên điên…!
Vào rừng ngỡ gặp bạn hiền
Bạn hiền nhiều đứa xuôi miền hư vô

Vào rừng chạy trốn hoan hô
Hoan hô xô lệch cơ đồ nước Nam
Trốn phố phường cái túi tham
Cùng rừng ta tiếp tục làm con dân...!
                                        (Trốn)
Như vậy là đã rõ. Anh trốn cuộc sống gấp ở phố phường, trốn sự giả dối, trốn sự gian tham. Anh lên rừng sống với đồng đội lính quèn chân thật, sống với những đồng chí, những người đã xuôi miền hư vô. Thực ra đó chỉ là cách nói ẩn dụ. Nhà thơ không thích hợp với đời sống kinh tế thị trường, bởi vì người “Làm kinh tế có trăm phương ngàn kế” (Âm Thịnh), lũ người sống xung quanh chẳng khác gì lũ đười ươi, thực ra đười ươi khác người bởi chúng không ngậm tăm như người (Ngậm Tăm). Anh không sống được với bọn quan tham kiếm tiền như làm xiếc (Xiếc), trong khi người nghèo hiền lành chân thật như Thạch Sanh vẫn bị lừa (Thạch Sanh). Dẫu vậy, anh không dấu được những cơn giận điên người trước thủ đoạn và tội ác mà tập đoàn Vê-Đan gây ra cho quê hương Đồng Nai (Bột Đắng)
Ai trực tiếp giết sông
Là gián tiếp giết người
Sông chết bây giờ
Người sẽ chết mai kia!

Lửa đã cháy! Chuột đã lòi mặt chuột
Tập đoàn Vê-Đan ăn năn hối cải
Đã muộn rồi!
Bột ngọt các ngươi trở nên đắng chát
TẬP ĐOÀN VÊ-ĐAN LÀ TẬP ĐOÀN TỒI”
Câu thơ ngắn lại với giọng quyết liệt, câu thơ bùng lên như lửa cháy. Những tưởng lửa căm giận, lửa của lòng yêu nước thương dân sẽ thiêu sạch bọn chuột Vê-Đan. Vậy mà anh chỉ kết luận bằng một câu chẳng có một tí trọng lượng nào. Câu thơ đa số là tiếng bằng, nhạc điệu buồn, chậm lại và buông xuôi như người lính gục xuống. “TẬP ĐOÀN VÊ-ĐAN LÀ TẬP ĐOÀN TỒI”
Phải chăng bút lực của anh đã sức cùng lực kiệt? hay kẻ thù quá lớn đến nỗi, dù súng đạn anh có thừa, anh cũng chẳng làm nên trò trống gì? Thơ anh chỉ còn là những lời hô hào suông, không lay động được những tâm hồn đồng điệu khác, không  gợi được cái hào khí hùng ca của thơ ca thuở trước! Hay tại đề tài anh chọn báo chí đã khai thác cạn kiệt, mà tài thơ của anh không thể gây sóng? tất nhiên chẳng ai đòi nhà thơ phải xông lên chiến đấu như người lính năm xưa, nhưng ít ra tư tưởng, tình cảm và ngọn lửa yêu nước trong lòng anh phải rực sáng, trong thời đại mà anh bảo là “Chặng đường phía trước còn tăm tối/ Đời còn lâu nữa mới bình minh” (Tự)
Hồn thơ ĐTT chỉ thực sự bình yên khi trở về với đồng quê xanh mát tình người
Phở bò, lẩu Thái cho qua
Mẹ ghiền bánh đúc - thứ quà nhà quê
Bánh đúc bát, bánh đúc sề
Lạc rang ít hạt bùi tê tái… bùi…

Mẹ ăn bánh: Con bùi ngùi
Bao bà Mẹ - Giống mẹ tôi hở giời?!
Nồng nàn tấm bánh đúc vôi
Quốc hồn dân Việt dâng đời thảo thơm…!
       (Ca bánh Đúc - Kính tặng các bà mẹ Việt Nam)
Cha tích cực trồng cau
Để kiếm mo làm quạt
Trời dộp phồng khô khát
Thương mẹ già mỏi tay…!
       (Mo Cau)
Ước gì trở lại ngày xưa
Đời yên tình thắm trâu đùa cùng ta
Cỏ non xanh lại đồng nhà
Trâu xơi thỏa chí, khỏi qua đồng người”
       (Trâu Về)
Ở những bài thơ trên (Ca Bánh Đúc, Sen, Hoa Lau, Rau tàu bay, Lá Trung Quân,Thày Ơi, Nước Mắt Chảy Xuôi, Mo Cau, Trâu Về..), thơ ĐTT hiền lành hơn, chất trữ tình đậm đặc hơn. Hồn thơ sâu nặng nghĩa tình. Tính châm biếm chỉ còn là nỗi xót xa rất nhẹ nhàng. Nói điều này để thấy những bài thơ châm biếm của anh xuất phát từ những nỗi bức xúc thế sự không dằn lòng được, còn căn cốt hồn thơ anh là tiếng nói trữ tình.
Thở phào: Thoát khỏi hưởng dương
Chuyển sang hưởng thọ: đọan trường còn xa…?!
Bao nhiêu lần suýt làm ma
Rồi con, rồi cháu đầy nhà như ai
Ngẫm mình có tí tẹo tài
Hành nghề chữ nghĩa với vài tập thơ
Xuống ruộng chán, lại lên bờ
Giờ đây thanh thản đợi giờ để “bay”
Của riêng “còn một chút này”
Ai khen: Cảm ta - ai rầy: Cám ơn…!
                         (Lên lão - 2009)
Nằm trong dòng thơ trữ tình của ĐTT là những bài anh viết cho các công ty (Tình Trong Ly Cà Phê, Những Tiếng Đập Sữa, Gửi Người Mặc Áo Nàng Bân, Những Cái Râu Mực). Những bài này chất trữ tình lấn át hẳn chất quảng cáo, khiến cho người đọc chợt ngỡ ngàng về tài thơ của anh. Bởi khi viết thơ châm, người thơ chú trọng đến đối tượng châm biếm và các kỹ thuật viết thơ châm, khiến cho chất nghệ thuật của ngôn ngữ văn chương bị giảm đi (thí dụ các bài: Không Đề, Gặp Lại Cây Sung, Bình Quân, Mèo, Đầy Tớ Còn Đang Họp…)


Thơ châm của Đào Trọng Thử có gì đặc sắc?
Nghệ thuật châm biếm trào phúng của ĐTT là nghệ thuật của thơ trào phúng truyền thống. Anh hay dùng thủ pháp tương phản để bật ra cái mâu thuẫn gây cười, tiếng cười đánh thẳng vào kẻ xấu, cái xấu. Anh cũng có những bài sử dụng nghệ thuật ẩn dụ để khái quát về một vấn đề (Mối, Gặp Lại Cây Sung, Không Đề, Rác, Thạch Sùng, Xuân Tóc Đỏ, Thạch Sanh, Lý Thông, Chí Phèo, Thi hào Nguyễn Du, Có Một Con Ngáo Ộp) Lập trường của anh là lập trường nhân dân, chính nghĩa của anh là chính nghĩa dân tộc, tình cảm yêu thương chiến đấu của anh là tình cảm thiên về đạo lý của nhân dân. Trong thơ anh, rất hiếm khi gặp được Cái Tôi.
Tiền Xu
Kẻ nghĩ ra tiền xu
Lại đang xài tiền tỷ
Hắn ung dung
Búng
        Những
                  Đồng
                           Xu
                               Han gỉ
Lăn
      Lăn
           Lăn
Về phía lũ ăn mày

Bài Cấp Độ được viết như một tiểu phẩm hài.
Đỉnh tầng năm khách sạn 5 sao
Nhìn xuống cánh đồng ven đô
Cán bộ tỉnh trầm trồ:
-      Ôi! Lúa mùa chin vàng mơ, đẹp quá!
Cán bộ huyện tán dương hể hả
-      Một cánh đồng màu mỡ
Dân trồng toàn lúa nếp
Hứa hẹn vụ mùa bội thu

Cán bộ xã gãi đầu, gãi tai:
- Hổng dám đâu, đất quy hoạch sân gôn
Nông dân đã nhận tiền rồi
Màu vàng cỏ tranh thôi
Kính thưa các sếp…!
Nhưng tuyệt kỹ châm biếm của ĐTT phải kể đến bài Lắng Tiếng Vỗ Tay, Bài Học Vỗ Tay, Thưởng. Anh nói rất thật, nhưng lại là châm biếm, và châm biếm sâu cay. Cái đau không phải là ở đối tượng bị châm biếm mà lại nỗi đau không kìm nén được trong lòng anh. Anh phê phán thói giả hình, thói vong ân bội nghĩa của cuộc đời và xót xa cho những người đã chiến đấu và hy sinh. Anh chỉ ra trong cái ồn ào, xô bồ, phô trương hình thức, đâu là bản chất của sự giả dối vong ân. Nội dung trở nên trào phúng khi ngôn ngữ của anh đang bình thường bỗng chuyển sang cường điệu hoặc tương phản.
…Ba mươi lăm năm ăn mừng toàn thắng
Người sống ngồi cùng người chết
Cùng lắng nghe biển người
Vỗ tay rào rào hoan hỷ
Bắt tay đồng chí - đồng bào
Tiếng vỗ tay đều đặn, tự hào
Tiếng vỗ tay vang vang như biển động sóng trào
Tiếng vỗ tay như sấm rền tít tận trời cao…
Mừng Việt Nam ta thắng Mỹ
Nhà nhà cụng ly
Người người cụng ly
Chiến sỹ cụng ly
Quân tham nhũng cụng ly
Cùng nhau giết chó ăn mừng
Tự hào ngày 30 tháng Tư góp mặt chúng mình
Tự hào có chúng mình mới có ngày 30 tháng Tư
Đồng đội của tôi ơi hãy im lặng lắng nghe cả nước vỗ tay
Vỗ đến tấy đỏ cả hai bàn tay vẫn còn mãi vỗ…
       (Lắng Tiếng Vỗ Tay)
12 câu thơ đầu mang ý nghĩa bình thường, vì vui nên có hơi lãng mạn một chút, nhưng khi bật ra câu 13 “Quân tham nhũng cụng ly” và câu 18: “Vỗ đến tấy đỏ cả hai bàn tay vẫn còn mãi vỗ…” thì toàn bộ nội dung trước đó trở nên trào phúng, châm biếm. Bởi tất cả những gì đang diễn ra, niềm vui, niềm tự hào, tình đồng chí đồng bào, ý nghĩa sự thắng lợi, ý nghĩa của lòng tri ân chỉ là giả dối, là hình thức, là ngụy trang. Làm gì có chuyện cả nước vỗ tay đều đặn? làm gì có cảnh Nhà nhà cụng ly/ Người người cụng ly/ Chiến sỹ cụng ly/ Quân tham nhũng cụng ly/ Cùng nhau giết chó ăn mừng. Làm gì có cảnh cả nước vỗ tay/Vỗ đến tấy đỏ cả hai bàn tay vẫn còn mãi vỗ. Chính sự cường điệu, sự diễu nhại  này tạo ra ý nghĩa châm biếm, làm đảo ngược ý nghĩa nội dung tưởng như thật được ĐTT miêu tả. Trong đoạn thơ trên cũng cần thấy tài năng dựng cảnh, tài năng, “chộp” những hình ảnh sắc nét, bất chợt, tài năng đặt bên nhau những cái tương phản để tạo ra một không gian nghệ thuật vừa cụ thể, vừa có sức khái quát, vừa rất thật, nhưng vừa là sự lật nhào tất cả làm lộ ra những gì là giả dối, sự giả dối lớn lao, sờ sờ ra đó trong thời đại hôm nay (cả nước-vẫn còn mãi). Cái đau là ở những người như “chúng mình”. Tự hào có chúng mình mới có ngày 30 tháng Tư/ Đồng đội của tôi ơi hãy im lặng lắng nghe cả nước vỗ tay.
Có thể bạn đọc sẽ không đồng tình với ĐTT về cách nhìn và cách phản ánh, phân tích hơi quá đáng của anh về hiện thực. Cả tập thơ chỉ phản ánh hiện thưc đau lòng của số phận nhân dân, của người lính sau chiến tranh, hiện thực giả dối, hiện thực bất công của thời kinh tế thị trường, anh ước mơ trở về “ngày xưa”, thời chiến tranh, tuy gian khổ nhưng nghĩa tình chân thực, đằm thắm. Tuy không nói thẳng ra, nhưng anh đòi hỏi phải có một xã hội công bằng, “Cơm no, áo ấm nhà nhà”, đòi hỏi những người đã chiến đấu hy sinh phải được bù đắp xứng đáng. Anh ca ngợi cuộc sống thanh bần. Cái nhìn của anh bi quan trước hiện thực, có đôi khi anh thỏa hiệp với hiện thực (Mừng Thọ Bác Bùi Tứ Hải, Thiên Đường,…).
Thực ra chiến tranh đã qua lâu rồi (37 năm), chẳng còn ai mong trở về cái thời đau thương ấy nữa. Bây giờ là thời khép lại quá khứ hướng đến tương lai, thời của “nước giàu, dân mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh” sẽ chẳng ai ngồi ôm đống xương người chết mà khóc (dù công việc đền ơn đáp nghĩa, tìm hài cốt liệt sĩ vẫn đang tiến hành), chẳng còn ai thích ăn rau tàu bay, dùng quạt mo cau nữa (Rau Tàu Bay, Mo Cau). ĐTT cố níu kéo cái thời quá vãng ấy, liệu anh có đủ sức không?
Cũng cần thấy điều này về mặt nghệ thuật, ĐTT có những phát hiện rất tinh tế, rất thơ cũng rất tư tưởng ở những sự vật sự việc của đời thường, qua đó anh đặt vấn đề làm “nhức đầu” người đọc (Hoa Lau, Rau Tàu Bay, Âm Thịnh, Tiền Xu, Mối, Nhắn Tìm Đồng Đội, Cấp Độ). Đọc những bài thơ này, người đọc vừa thấm thía, vừa thú vị. Thấm thía ở vấn đề anh đặt ra, thú vị ở nghệ thuật thể hiện. Xin đọc Tiền XuCấp Độ là hai bài tiêu biểu. Tuy vậy không phải bài nào anh cũng thành công. Bình QuânNgậm Tăm là hai bài rất ít sáng tạo nghệ thuật. Bài Ngậm Tăm (07.2010) của ĐTT chắc chắn là sự diễn đạt lại dưới dạng thơ ý tưởng chủ đề của truyện ngắn Thói Ngậm Tăm (12.2007) của Khôi Vũ. Còn Bình Quân là câu chuyện giả định được kể nhiều trong dân gian để mỉa mai cách tính GDP theo bình quân đầu người. ĐTT chỉ ghi lại câu chuyện mà không có sáng tạo gì mới hơn. Bài Mèo thực sự chưa đem đến cho người đọc cảm xúc thẩm mỹ cần thiết để cảm nhận đó là một bài thơ, ngoài sự chia sẻ một nhận định bi quan của tác giả “Người đời ai chẳng một lần/ Mèo…!”
Có một con gà luộc
Bình quân cho hai người
Kẻ giầu thản nhiên chén
Người nghèo nhăn răng cười…
       (Bình Quân)
Nếu Đào Trọng thử phát huy được mặt mạnh của mình cả trong thơ trữ tình và thơ châm biếm, anh sẽ có nhiều thành công hơn, bởi anh có được cái nền tình nghĩa sâu nặng với nhân dân, sử dụng được kỹ thuật thể hiện của nhân dân, và anh hòa mình vào trong nhân dân để cảm nhận, lên tiếng về những vấn đề của đời sống đương đại, mà tầm nhìn của anh vừa có chiều lịch sử, vừa có chiều hiện đại (Có Một Con Ngáo Ộp- Bột Đắng; Sen-Cấp Độ…). Trong tập thơ TRỐN anh không có bài thơ cách tân theo khuynh hướng của thơ Việt đương đại, tuy vậy tập thơ định hình được khuôn mặt thơ Đào Trọng Thử với hai nét sắc sảo là  trữ tình và châm biếm. Đào Trọng Thử vẫn trung thành với con đường đi riêng trong cá tính sáng tạo, và ít nhiều anh đã có được thành công.
Dù sao ý niệm “trốn” trong thơ ĐTT cũng gợi ra thái độ an bần lạc đạo của nhà Nho xưa, tuy ĐTT chưa bao giờ là nhà Nho, mà tính cách của anh là tính cách con nhà lính.
Cháu nội cháu ngoại đầy nhà
Gặp nhau thì vẫn cứ là mày tao
Ngỡ như vừa mới hôm nào
Tha La, Vườn Mít, đội tao đội mày
Trộm rau bắt gặp thì “vay”
Mổ thương binh giỏi, đứt tay la làng
Lính quèn rất khoái xài sang
Đèn Nghéo, đài Nhật nghênh ngang rừng già…
Chiến trường ôn lại mắt cay
Rưng rưng nhớ bạn bấy chầy “tiêu dên”
Miền Đông ác liệt nỡ quên?
Mất toi tuổi trẻ bắt đền ai đây?!
Ăn mừng cuối tháng Tư này
Sang năm gặp lại chúng mày Hăm ba…
       (Ngẫu hứng K23)
BCT


Bùi Công Thuấn là một nhà giáo dạy văn có thâm niên ở Đồng Nai. Trước giải phóng 1975, ông chưa xuất hiện trên văn đàn mà được biết đến như một nhạc sĩ du ca trẻ. Sau 1975, Bùi Công Thuấn vừa dạy học (Là giáo viên trường THPT Long Khánh, sau đó có một thời gian là hiệu trưởng trường THPT dân lập Văn Hiến ở đây), vừa viết ca khúc rồi những năm sau này, viết lý luận phê bình.
Trong lĩnh vực lý luận phê bình, Bùi Công Thuấn tỏ ra là một cây bút “rất riêng” khi viết phê bình những tác phẩm của tác giả trong nước (Gồm cả Đồng Nai, tất nhiên) và hoàn toàn không như nhiều tác giả khác thường chỉ giới thiệu sách với những bài ngắn, dễ được báo chí đăng tải. Các bài viết của Bùi Công Thuấn thường dài (Có khi quá độ cần thiết) và các ý khen chê đều có dẫn chứng với những cơ sở khoa học mà ông sở hữu. Với cách viết này, không ít lần ông được/phải/bị nhận phản hồi đồng cảm hoặc bất bình của người trong cuộc hoặc các tác giả viết phê bình khác! Tôi biết, có đôi lúc Bùi Công Thuấn đã rơi vào tâm trạng chán nản. Nhưng cuối cùng, ông vẫn đứng vững được trên cái nền học thuật mà mình được trang bị, nhất là, trên cái Tâm trong sáng của một người luôn muốn đi tìm sự tri âm với các tác giả qua các tác phẩm cụ thể của họ.
KHÔI VŨ

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét