Thứ Bảy, 14 tháng 4, 2012

GVĐN 11: KỶ VẬT CỦA MỘT LIỆT SĨ ĐỒNG NAI

Sau hơn 40 năm, kỷ vật của một liệt sĩ người Đồng Nai trở lại với gia đình

Cuốn sổ ghi thơ và cuốn sổ nhật ký
Câu chuyện bắt đầu từ bài báo trên tờ The Age của Úc, kể về một cựu binh là Laurens Wildeboer canh cánh trong lòng suốt 40 năm vì lưu giữ bài thơ “Lá thư Xuân” trong một cuốn sổ tay được cho là sổ nhật ký của một người lính Việt Nam. Ngoài ra, cựu binh này còn lưu giữ một cuốn sổ nhật ký khác, một giấy lý lịch, một khăn quàng của bộ đội Việt Nam. Những kỷ vật này được ông lấy từ chiến trường Việt Nam khi tham gia cuộc chiến với ông là phi nghĩa.
 Cũng theo bài báo trên tờ The Age, bài thơ là của người lính mang tên Phan Van Ban (Phan Văn Bần, tên thật của liệt sỹ Phan Thành Nhơn). Tuy nhiên, trong quá trình tìm hiểu thực tế, bà Ngô Thị Thúy Hằng, Giám đốc Trung tâm quản lý dữ liệu liệt sỹ và người có công (MARIN), cho biết hiện chưa xác định được tác giả thật sự của bài thơ “Lá thư Xuân”.

 Sau khi bài thơ “Lá thư Xuân” gây xúc động trong lòng độc giả và cũng gây nhiều tranh cãi về tác giả đích thực của nó, trung tâm MARIN đã liên hệ với thiếu tướng tình báo Úc Ernie Chamberlain, nhà ngôn ngữ tiếng Việt, cựu thiếu tướng và từng làm tình báo trong quân đội Úc.
 Ông Chamberlain cho biết, vào đầu tháng 2 vừa qua, ông Derrill de Heer đã gặp ông và nhờ giúp đỡ. Ông Derrill là một cựu binh và là người cùng tiến sỹ Bob Hall thuộc trường Đại học New South Wales, ở thủ đô Canberra của Úc đã thiết lập một hệ thống dữ liệu những trận đánh của binh lính Úc trong cuộc chiến ở Việt Nam. Khi gặp, ông Derrill de Heer đã đưa ra hai cuốn nhật ký cũ mèm cùng tài liệu là giấy lý lịch mà cựu binh Laurens Wildeboer đã lưu giữ suốt 40 năm qua.
 Ông Chamberlain đã dịch giấy lý lịch đó ngay và được biết trên tờ giấy lý lịch ghi liệt sỹ Phan Văn Bần, tên thường dùng là Phan Thanh Hùng và bí danh là Phan Thành Nhơn. Ngoài ra, trên một trong hai cuốn sổ nhật ký có viết chữ “C205” mà theo ông Chamberlain là đại đội C205, đơn vị trinh sát có tiếng xuất sắc và trực thuộc Phân khu 4 hồi ấy.
 Từ thông tin của ông Chamberlain và dựa trên nguồn dữ liệu của MARIN, MARIN đã tìm ra hồ sơ gốc của liệt sĩ Phan Thành Nhơn có những thông tin trùng khớp với thông tin mà ông Ernie Chamberlain cung cấp về năm sinh, ngày nhập ngũ và gia cảnh của chiến sĩ Phan Thành Nhơn. Tuy nhiên ngày hy sinh chính xác của liệt sĩ Phan Thành Nhơn quê Long Thành, Biên Hòa, Đồng Nai là ngày 15/09/1970 (trùng với thông tin bà Nguyễn Thị Hiểu - mẹ liệt sĩ Nhơn cung cấp).
Vậy chủ nhân đích thực của bài thơ Lá thư xuân là ai? Liệt sĩ Phan Thành Nhơn có phải là chủ nhân không? Nếu không thì liệt sĩ Phan Thành Nhơn và chủ nhân của bài thơ “Lá thư xuân” có quen biết nhau không?... Đây là những câu hỏi mà trung tâm MARIN và những người liên quan đi tìm câu trả lời.
 Vũ Quý

Laurens Wildeboer - Người lính Úc hơn 40 năm trước
Laurens Wildeboer đến miền nam Việt Nam vào tháng 1/1968, khi 20 tuổi, để ở bên kia chiến tuyến của Việt Cộng. Còn Phan Van Ban (người lính viết bài thơ?) là một trong những chiến sỹ Việt Cộng. Tháng 1/1968, anh cũng 20 tuổi.
 Vào thời điểm này, quân ta đang tiến hành một cuộc tổng tấn công, cuộc tấn công Tết Mậu Thân. Cuộc chiến đã khiến nhiều chiến sỹ như Phan Van Ban ngã xuống, song quy mô và sức tấn công của nó đã khiến quân Mỹ (và cả Úc) choáng váng và nó đã trở thành ngã rẽ chính trị quan trọng trong cuộc chiến.
Wildeboer chưa bao giờ gặp người lính Phan Van Ban đó, và mới gần đây ông vẫn không hề biết tên của anh, nơi anh sinh, liệu anh có gia đình hay không - mặc dù ông đã canh cánh suốt 40 năm.
Wildeboer, giờ đây đã 64 tuổi và đang sống ở Kyneton cùng với vợ là Roni. Việt Nam, cuộc chiến không bao giờ nguôi ngoai trong ông. Đến cuối 3.2012 này, ông trở lại Việt Nam, đất nước ông đã lần đầu tiên đặt chân đến từ 43 năm trước.
Ông sẽ mang theo cuốn sổ và chiếc khăn, bởi giờ đây ông đã biết người lính Phan là ai. Ông biết người lính Phan có một gia đình, và mẹ người lính Phan vẫn còn sống. Tên bà là Nguyen Thi Hieu, hiện đã 85 tuổi. Ông sẽ trả lại cho bà những gì của con trai bà. Ông hi vọng bà sẽ được an ủi phần nào và bản thân ông sẽ được thanh thản đôi chút.
***
Năm 17 tuổi Wildeboer gia nhập quân đội vì hiếu kỳ. Ông không hề có chút khái niệm nào về cuộc chiến đang bùng nổ ở Việt Nam. “Tôi không biết gì hết”, ông nói. “không một chút nào. Tôi không biết rằng một số kẻ nhẫn tâm thực ra muốn đưa tôi đến một cuộc chiến và cuối cùng là bắn vào mọi người”.
Tại Việt Nam ông ở trong đội Kỹ sư điện máy hoàng gia Úc, sửa chữa và bảo dưỡng những thiết bị lớn, như xe tăng. Nhìn nhận của ông về cuộc chiến bắt đầu thay đổi và ông bị giằng xé giữa những gì đã được dội vào tai khi huấn luyện và những gì thực sự nhìn thấy. Ông đã tự nhủ: “Tôi chỉ là du khách”. Và đó là cách ông tự tách mình ra khỏi những gì đang diễn ra xung quanh ông.
Vào tháng 3/1969, ông đóng gần căn cứ Mỹ ở Long Bình, đông bắc Sài Gòn khi đó.
“Chúng tôi ở đó vài ngày và có rất nhiều cuộc giao tranh xảy ra. Một ngôi làng địa phương đang bị tấn công. Tất cả những thứ vớ vẩn này lởn vởn quanh đầu tôi…”, ông dừng lại.
“Tôi nghĩ sáng hôm sau khi lính bộ binh trở lại, tôi nghĩ họ là người Australia, sẽ có một đống đồ họ để lại gần căn cứ của chúng tôi. Và chuyến du lịch của tôi sắp kết thúc. Tôi nghĩ tôi sẽ vớ một số đồ.”
Đồ mà ông nói đến gồm cả vũ khí, ba lô của những người lính bên kia chiến tuyến được lấy từ chiến trường. Cũng có cả những cuốn nhật ký có thể hữu ích cho thông tin tình báo. Nhưng một cuốn sổ thơ và một cuốn sổ nhật ký không có giá trị cho quân Mỹ, Úc.
Ông đã ở trong quân ngũ đến tận năm 1985, về hưu sau 20 năm và 3 ngày phục vụ. Năm 1992, ông bị chẩn đoán rối loạn stress hậu sang chấn.
Trong suốt bấy nhiêu năm, ông đã canh cánh về những gì mình lưu giữ. Ông đã canh cánh làm thể nào để có thể gửi lại những cuốn sổ tay và chiếc khăn cho người đáng giữ chúng.
Rồi sau đó, vào khoảng ngày Anzac (25/4) năm ngoái, ông đã đọc được bài viết trên tờ The Sunday Age về công việc của những cựu binh như ông, hiện giờ là những nhà nghiên cứu khoa học. Họ đã làm bản đồ mộ của những người Việt Nam đã chết và khuyến khích các cựu binh trả lại thư, nhật ký cùng ảnh họ đã lấy trong chiến trường.
Các nhà nghiên cứu là Bob Hall và Derrill de Heer tại trung tâm nghiên cứu xung đột vũ trạng và xã hội Úc tại Đại học New South Wales, Học viện quốc phòng Úc.
Vì vậy Wildeboer đã liên hệ với họ. Đổi lại, họ cho ông gặp Ernie Chamberlain, nhà ngôn ngữ tiếng Việt, cựu thiếu tướng và từng làm tình báo trong quân đội Úc.
Chamberlain đã giúp xác định danh tính, đơn vị của người lính Phan, đơn vị trinh sát đặc nhiệm được biết đến với cái tên C205.
Người lính Phan tham gia du kích năm 1963, tự miêu tả mình là một “nông dân nghèo”. Và cuốn sổ ghi những chi tiết cá nhân có tên của cha mẹ người lính. Người lính đã được nhận giấy khen trong trận chiến chống Mỹ vào năm 1967. Anh em trai của người lính Phan, cũng là một chiến sỹ Việt Cộng, đã hi sinh trong cuộc chiến năm 1965. Và người lính đó thú nhận có hai điểm yếu: “dễ buồn” và “dễ nóng giận”.
Những nhà nghiên cứu đã liên lạc tiếp với một thượng tá về hưu ở Việt Nam, bà Nguyễn Thị Tiến, người dành suốt nhiều thập niên qua để tìm kiếm những người đã mất trong chiến tranh và trả lại hài cốt cho gia đình họ.

Chân dung người lính họ Phan qua hồi ức của bà mẹ
Chúng tôi tìm về với bà Hiểu trong một buổi chiều nhạt nắng. Căn nhà cấp 4 nơi bà đang ở một mình không hề quạnh vắng. Tuổi già của bà được bù đắp bằng tình yêu thương và tiếng cười con trẻ. Các con của bà lớn lên, lập gia đình nhưng phần lớn quần tụ bên bà, lấy sân nhà bà làm trung tâm cho cả đại gia đình.
Bà có tổng cộng 9 người con gồm: Phan Thành Nhơn, Phan Văn Nghĩa (đều hy sinh trong chiến tranh), một con gái bị bệnh mất lúc nhỏ, Phan Thị Thúy (SN 1956), Phan Thị Phước (SN 1958), Phan Thành Được (SN 1960), Phan Thị Vẹn (SN1964), Phan Thanh Tuyền (SN 1966) và Phan Thị Bạch Tuyết (SN 1972).
Ở cái tuổi gần đất xa trời, nhưng bà vẫn minh mẫn. Ký ức về đứa con trai hy sinh trong chiến tranh vẫn còn hiển hiện. Bà nhớ rõ và kể không sót một chi tiết nào dù rất nhỏ.
Bà kể rằng, năm tháng qua đi nhưng hình ảnh về những đứa con hy sinh khi làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc vẫn còn in trong tâm trí. Con mình sinh ra mà mất đi, ai mà không đau như cắt bỏ từng nhúm ruột. Nhưng con bà hy sinh khi làm nghĩa vụ thiêng liêng thì cái chết đấy đã trở thành bất tử. Chỉ có điều làm bà buồn nhất là thi hài của liệt sĩ Phan Thành Nhơn vẫn chưa được tìm thấy. Hồi ức đau thương ấy đôi khi bà cố quên đi để thanh thản trong lòng. Vậy mà, mới đây có 2 anh công an đến nhà báo cho bà biết tin một cựu binh Úc đang lưu giữ cuốn nhật ký bằng thơ và chiếc khăn choàng của anh Nhơn làm miền ký ức của bà trỗi dậy.
Bà nói rành rõi, con trai tôi tên Phan Thành Nhơn. Khi đi chiến trường lấy tên là Phan Văn Bền. Có thể, khi vào quân ngũ, Bền đổi tên lần nữa thành Phan Văn Ban. “Thằng Nhơn nhà tôi dáng người tròn tròn, lùn lùn. Tính tình hiền lành, nhanh nhẹn lắm. Thằng thứ 7 (tức anh Được – PV) bây giờ giống thằng Nhơn như đúc”, bà kể.
Điều khiến người mẹ này đau đáu nhất là thi hài đứa con trai hy sinh trong chiến tranh đến nay vẫn chưa được tìm thấy.
Những năm 1966-1970, quân giặc tràn vào khu vực Long Thành chiếm đóng. Thanh niên địa phương hăng hái vào quân đội. Anh Nhơn cũng vậy. Anh đi vì tiếng gọi đời trai, vì sự căm thù quân giặc đã gây ra cái chết cho em của mình, liệt sĩ Phan Văn Nghĩa. Có những đêm khuya, anh Nhơn về thăm ba mẹ và đàn em nhỏ trong tích tắc rồi lại đi.
“Tôi nhớ, hôm đó là đêm Trung thu (8/1970), Nhơn bất ngờ về nhà thăm em. Hắn rọi đèn pin khắp căn hầm tìm mặt mày mấy đứa em. Hắn hỏi tôi: “Má có mua bánh trung thu cúng không?”. Tôi bảo có, bánh để trên bàn thờ. Hắn lấy bánh ra cùng mấy đứa em ăn rồi đi vào rừng trở lại. Nhưng tôi đâu ngờ lần đó con tôi đi mãi mãi không về”, người mẹ già nhớ lại.
Khi anh Nhơn mất, 5 ngày sau đồng đội mới báo về. Do giao tranh ác liệt nên mảnh đất quê hương, nơi anh nằm xuống bị bom đạn cày xới, việc tìm thi hài anh cũng vô vọng từ đó đến nay.
“Con tôi chết vào tháng 8 năm 1970 chứ không phải 1969. Ông cựu binh Úc nói con tôi chết 3/1969, nhưng thực ra đó là thời gian ông ấy tham gia trận đánh vào Long Thành. Sau đó, ông lấy ba lô của Nhơn đi, rồi cứ nghĩ Nhơn chết trong trận đánh đó nhưng thực ra không phải vậy”, bà Hiểu kể lại.

Công Quang

“Lá thư xuân” không phải của người lính họ Phan

Sau 43 năm lưu lạc nơi xứ người, chiều ngày 2.4.2012, lần đầu tiên kỷ vật của những người lính cụ Hồ trở về với quê mẹ trên đôi tay của người cựu binh một thời bên kia chiến tuyến.
 Cẩn trọng mở chiếc hộp đã gìn giữ như giữ chính con ngươi của mình hơn 40 năm qua, bàn tay run run của người cựu binh người Úc, Laurens Wildeboer nhẹ nhàng đặt hai cuốn sổ và những mảnh giấy đã hoen màu thời gian lên mặt bàn. “Đây là những chiến lợi phẩm tôi thu lượm được từ chiến trường đông bắc Sài Gòn vào tháng 3, năm 1969. Đồ đạc mà tôi lượm được khi đó có cả vũ khí và những ba lô… Tôi đã giữ lại bên mình những cuốn sổ ẩn chứa đầy tình người này, để rồi từ đó đến nay chúng như những hồn ma cứ ám ảnh thôi thúc tôi phải trở lại Việt Nam”.
Ông Wildeboer nghẹn ngào chia sẻ: “Khác với nét hoang tàn đổ nát của 43 năm về trước, giờ đây đất nước các bạn đẹp quá. Tôi vẫn không hiểu tại sao tôi lại tham gia vào cuộc chiến phi lý ấy. Hôm nay, trở lại đây mang theo những kỷ vật này tôi thấy mình như được giải thoát khỏi những ám ảnh, dằn vặt suốt thời gian qua”.
Kỷ vật của những người lính Việt Nam được ông Wildeboer mang tới bao gồm: Một cuốn sổ tay còn rất nguyên vẹn, một cuốn tập bìa ngoài ghi rõ “sổ ghi thực phẩm”, bên trong kèm theo bản sơ yếu lý lịch và một chiếc khăn có màu xanh viền hồng. Sơ yếu lý lịch ghi rõ họ và tên của người lính là Phan Văn Ban, họ và tên thường dùng Phan Thanh Hùng, bí danh Phan Thành Nhơn. Anh sinh ngày 22/4/1948, quê quán tại Phước Lộc xã, quận Long Thành, Biên Hòa.
Thượng tá, Nguyễn Thị Tiến, nguyên Phó giám đốc Viện bảo tàng Quân khu 4 cho biết, trước đó, bà đã được phía Úc liên lạc nhờ xác minh địa chỉ của người chiến sĩ trong sơ yếu lý lịch nói trên. Qua nhiều tháng lặn lội bà đã lần ra địa chỉ này. Cha mẹ của người lính trên có tên là Phan Văn Lâu và Nguyễn Thị Hiểu. Trong quá trình tham gia chiến đấu, người chiến sĩ này từng nhận được 1 bằng khen, 1 giấy khen dũng sĩ diệt Mỹ và 2 giấy khen diệt cơ giới, tất cả đều trùng khớp với bản sơ yếu lý lịch ông Wideboer đã lượm được.
 Cùng với cuốn tập và chiếc khăn có cuốn sổ tay được xem là khá sang trọng trong thời điểm những năm cuối của thập niên 60. Mở đầu cuốn sổ là câu thơ “Ta không như con thuyền chờ đợi/ Gió xuôi rồi buồm mới căng lên”, phía dưới là hai chữ in hoa “THANH PHONG” được đánh bóng khối. Cuốn sổ mới được viết vài trang chủ yếu là những bài thơ dạt dào cảm xúc, trong đó có bài Tình đồng chí viết từ tháng 2 năm 1965.
Trước khi những kỷ vật này được đưa về Việt Nam, nhiều người cho rằng chúng đều là của người lính họ Phan. Tuy nhiên, qua đối chiếu cho thấy cùng một thời điểm nhưng nét chữ của người lính họ Phan trong sơ yếu lý lịch và nét chữ của cuốn sổ tay ghi chép những bài thơ hoàn toàn khác nhau.
Qua nghiên cứu và phân tích một số bài thơ trong cuốn sổ tay này, thượng tá Nguyễn Thị Tiến cho rằng: “Đây không phải cuốn sổ của người lính họ Phan ngụ tại Đồng Nai mà là cuốn sổ của một người lính ngoài Bắc. Điều này được chứng minh trong bài “Lá thư xuân” bởi những hình ảnh gắn liền với mùa xuân xứ Bắc như chim én, hoa đào, cái rét hay cách dùng từ ngoài ấy trong này… Vậy tác giả của “lá thư xuân” là ai, vấn đề này chúng tôi sẽ phải tiếp tục nghiên cứu và xác minh”.
TRUNG KIÊN - VÂN SƠN

Cựu binh Úc trao kỷ vật của liệt sĩ Phan Văn Ban
Đúng 10h sáng ngày 3/4, cựu binh Úc Laurens Wildeboer - người đã lưu giữ cuốn sổ ghi chép và khăn quàng của liệt sĩ Phan Văn Ban - đã trao những kỷ vật đó cho người thân liệt sĩ. Những kỷ vật ấy đã được ông gìn giữ suốt 40 năm qua.
Giây phút xúc động mà nhiều người chờ đợi đã đến. Cầm trên tay từng món kỷ vật của liệt sĩ Phan Văn Ban (tên khác là Phan Thành Nhơn và Phan Thanh Hưng, quê ở ấp 2, xã Long An, Long Thành, Đồng Nai), người cựu binh Úc trân trọng trao cho mẹ ruột của liệt sĩ Ban.
Trong dòng cảm xúc bị dồn nén, ông Wildeboer gửi đến gia đình liệt sĩ lời xin lỗi, bày tỏ sự hối tiếc về những gì đã xảy ra trong quá khứ. “Ông Ban và những lính Việt Nam rất tuyệt vời. Họ thật tuyệt khi làm tất cả vì đất nước” - ông Wildeboer chia sẻ.
Sau giây phút cảm động, ông Wildeboer lần lượt trao lại cuốn số ghi chép và chiếc khăn quàng cổ mà ông đã lấy được tại chiến trường Việt Nam năm xưa.
Nghẹn ngào, cảm động, người thân liệt sĩ Ban cũng bày tỏ lời cảm ơn tới nghĩa cử đẹp của người cựu binh Úc. “Thật xúc động khi chiến tranh qua đi đã lâu mà các ông vẫn giữ lại những gì của con trai tôi. Tất cả đã là quá khứ nhưng tình cảm giữa con người thì mãi vẫn còn” - mẹ liệt sĩ Ban xúc động.

TRUNG KIÊN - VÂN SƠN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét